Được tạo bởi Blogger.

Giới thiệu về tôi

Blogger templates

RSS

Pages

CHỈ DẪN DÀNH CHO GIÁO LÝ VIÊN


 Chỉ dẫn dành cho giáo lý viên là tập tài liệu định hướng ơn gọi giáo lý viên, việc huấn luyện và thăng tiến giáo lý viên trong các xứ truyền giáo trực thuộc Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc.

Kính thưa quý đọc giả,
Ngày 16.6.1992, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã chuẩn nhận tập CHỈ DẪN DÀNH CHO CÁC GIÁO LÝ VIÊN, do Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc biên soạn.
Đây là một tài liệu định hướng ơn gọi, việc huấn luyện và thăng tiến giáo lý viên trong các xứ truyền giáo trực thuộc Bộ Rao giảng Phúc Âm cho các dân tộc.
Trang web giaolyductin hân hạnh giới thiệu tập tài liệu này trong nhiều kỳ. Kính mời bạn đọc theo dõi.
WGLĐT

LỜI GIỚI THIỆU CỦA ĐỨC HỒNG Y JOZEF TOMKO,
BỘ TRƯỞNG BỘ RAO GIẢNG PHÚC ÂM CHO CÁC DÂN TỘC

Kính thưa Quý Anh Em trong Giám mục đoàn,
cùng quý Linh mục
và Giáo lý viên thân mến,
Trong giai đoạn lịch sử hết sức nhạy bén và thuận lợi này, vì nhiều lý do, nhờ ảnh hưởng của sứ điệp Kitô giáo, Bộ Rao Giảng Phúc Âm cho các Dân tộc đặc biệt quan tâm đến một vài hạng người giữ vai trò quyết định đối với hoạt động truyền giáo: Quả vậy, sau khi duyệt xét việc huấn luyện trong các đại chủng viện (1986), khảo sát đời sống và sứ vụ các linh mục (1989), Bộ quan tâm đến các giáo lý viên giáo dân, trong Hội nghị Khoáng đại vào tháng 4 năm 1992.
Các giáo lý viên luôn góp phần quan trọng trong công cuộc rao giảng Phúc âm của Hội thánh tại thế. Ngày nay, họ vẫn được xem là những “người rao giảng Phúc Âm không thể thay thế được như thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Độ) đã quả quyết. Trong sứ điệp gửi cho Hội nghị Khoáng đại của chúng ta, Đức Thánh Cha đã xác định vai trò đặc biệt của giáo lý viên: “Qua các cuộc thăm viếng mục vụ, cá nhân tôi nhận thấy các giáo lý viên, nhất là trong các xứ truyền giáo, mang lại một sự giúp đỡ đặc biệt và hết sức cần thiết cho việc phát triển đức tin và Hội Thánh” (AG 17).
Bô Rao giảng Phúc Âm cho các Dân tộc chân nhận rằng giáo lý viên giáo dân rõ ràng là một vấn đề có tính cách thời sự. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, họ tiếp tục loan báo “tin mừng” một cách chân thành, cho những anh em thuộc các tôn giáo khác, chuẩn bị cho những người này lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy để gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Nhờ việc dạy giáo lý, chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, hướng dẫn cầu nguyện và thực thi bác ái, giáo lý viên giúp các tín hữu tăng thêm nhiệt thành trong đời sống kitô hữu. Nơi đâu thiếu linh mục, giáo lý viên đảm nhận luôn việc hướng dẫn mục vụ các cộng đoàn nhỏ ở xa Trung Tâm. Thông thường, họ được mời gọi chứng tỏ lòng trung thành qua việc chịu đựng những thử thách gian nan và những thiếu thốn nghiệt ngã. Lịch sử rao giảng Phúc Âm trước kia và gần đây xác nhận họ gắn bó đến độ hiến cả mạng sống. Quả thật, họ là niềm tự hào của Hội Thánh truyền giáo.
Tập Chỉ Dẫn dành cho Giáo lý viên, kết quả của Hội nghị Khoáng đại vừa qua, cho thấy Bộ quan tâm đến “đội ngũ tông đồ giáo dân rất đáng khen ngợi này”.
Tập Chỉ Dẫn chứa đụng một nội dung phong phú và được sắp xếp để bàn đến những khía cạnh khác nhau: từ căn tính của giáo lý viên, việc tuyển chọn, huấn luyện và linh đạo của họ, cho đến các nhiệm vụ tông đồ căn bản và tình hình kinh tế.
Với nhiều hy vọng, tôi ủy thác tập Chỉ Dẫn này cho các giám mục, linh mục và cho chính các giáo lý viên, mời gọi tất cả nghiên cứu cẩn thận và thực thi các chỉ dẫn được đề ra. Đặc biệt, tôi yêu cầu các Trung Tâm hay các Trường đào tạo giáo lý viên qui chiếu vào tài liệu này để thiết lập những chương trình huấn luyện và giảng dạy; về nội dung giảng dạy, họ đã có trong tay sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, đã xuất bản sau Hội nghị Khoáng đại.
Được sử dụng cách chuyên cẩn và trung thành, tập Chỉ dẫn dành cho giáo lý viên trong các Giáo Hội thuộc Bộ truyền giáo, không những góp phần cổ võ việc canh tân hình ảnh người giáo lý viên, mà còn bảo đảm cho lãnh vực thiết yếu đối với tương lai truyền giáo trong thế giới được tăng trưởng trong hiệp nhất.
Đó là ước vọng chân thành của tôi. Xin phó dâng cho Đức Maria là Mẹ và là gương mẫu của giáo lý viên, để Mẹ làm cho ước vọng ấy ngày càng trở nên một hiện thực đầy an ủi trong các Giáo hội trẻ.
Sau khi nghe Bộ trình bày và xem tập Chỉ Dẫn này, Đức Thánh Cha đánh giá cao và khích lệ sáng kiến này. Ngài hết lòng ban phép lành Toà Thánh với sự quan tâm rất đặc biệt dành cho các giáo lý viên.
Rôma, lễ thánh Phanxicô Xaviê 3.12.1993
*************************
-         CHỈ DẪN DÀNH CHO GIÁO LÝ VIÊN –

PHẦN MỘT:  MỘT TÔNG ĐỒ LUÔN HỢP THỜI
I. GIÁO LÝ VIÊN TRONG MỘT GIÁO HỘI TRUYỀN GIÁO
2. Ơn gọi và căn tính.Trong Hội Thánh, mỗi tín hữu đều được Chúa Thánh Thần mời gọi cách riêng tư, góp phần làm cho Nước Chúa trị đến. Bậc giáo dân có nhiều “ơn gọi” khác nhau, hay nhiều con đường thiêng liêng và hoạt động tông đồ khác nhau liên quan đến mỗi tín hữu giáo dân. Trong ơn gọi “chung” là giáo dân, nhiều ơn gọi “riêng” nảy sinh8
Ơn gọi giáo lý viên không những bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của Chúa Thánh Thần hay một “đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận”9 và được Đức Giám mục minh nhiên uỷ nhiệm. Điều quan trọng là làm thế nào để ứng sinh giáo lý viên nhận ra ý nghĩa sâu xa và siêu nhiên của lời mời gọi ấy, hầu có thể đáp trả như Ngôi Lời vĩnh cửu: “Này đây, Con đến” (Dt 10,7) hoặc như tiên tri Isaia: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).
Như thế, trong thực tại truyền giáo, ơn gọi giáo lý viên vừa có tính “chuyên biệt” vì dành riêng cho Huấn giáo, vừa có tính “tổng quát” vì tham gia vào các tác vụ tông đồ để xây dựng và phát triển Hội Thánh10.
BRPD nhấn mạnh đến giá trị và tính chuyên biệt của ơn gọi giáo lý viên. Mỗi người phải dấn thân để khám phá, nhận định và vun trồng ơn gọi của mình11.
Từ các nhận xét sơ khởi trên về ơn gọi, chúng ta có thể nói giáo lý viên hoạt động trong các xứ truyền giáo có căn tính riêng, xác định tính cách của họ so với giáo lý viên hoạt động trong các Giáo Hội kỳ cựu, như Huấn quyền và luật lệ Hội Thánh đã qui định12.
Tóm lại, giáo lý viên trong các xứ truyền giáo được xác định bởi bốn yếu tố chung và riêng: lời mời gọi của Chúa Thánh Thần; sứ mạng của Hội Thánh; tham gia vào tác vụ tông đồ của Giám mục; mối liên hệ đặc biệt với hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, hoạt động đến với muôn dân.
3. Vai trò.Nối kết chặt chẽ với căn tính ấy, vai trò của giáo lý viên được thực thi đúng đắn trong tương quan với hoạt động truyền giáo. Phục vụ này vừa rộng lớn lại vừa đa dạng: trước tiên là công khai rao truyền sứ điệp Kitô giáo, đồng hành với các dự tòng, những người anh và những người chị, trong việc lãnh nhận các bí tích cho đến khi trưởng thành đức tin trong Chúa Kitô. Kế đến là hiện diện và làm chứng bằng cách thăng tiến con người, nỗ lực hội nhập văn hóa, đối thoại13.
Do đó, khi đề cập đến các giáo lý viên “ở xứ truyền giáo”14, Huấn quyền bầy tỏ sự quan tâm đặc biệt và luôn nhắc nhở đến họ. Chẳng hạn, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu độ) mô tả các giáo lý viên như “những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Phúc âm không thể thay thế; họ là những người tiêu biểu cho sức mạnh căn bản của các cộng đoàn tín hữu, đặc biệt trong các Giáo Hội trẻ”15. Giáo luật cũng dành một phần riêng cho các giáo lý viên đang dấn thân hoạt động truyền giáo và mô tả họ như “những giáo dân có trình độ và đời sống đạo hạnh, dưới sự hướng dẫn của nhà truyền giáo, hiến thân lo giảng dạy Giáo lý Tin mừng và tổ chức các cử hành phụng vụ cũng như các việc bác ái”16.
Mô tả bao quát về giáo lý viên trên đây phù hợp với quan niệm của BRPD tại Hội nghị khoáng đại năm 1970: “Giáo lý viên là một giáo dân được Giáo Hội đặc cử, tùy theo những nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và bước theo, nơi những người chưa biết Chúa, và ngay cả nơi các tín hữu”17.
Cũng như đối với những tín hữu khác, các mục tử, tuỳ theo những qui định của luật phổ thông, có thể trao phó cho giáo lý viên một số chức vụ và nhiệm vụ liên kết với thừa tác vụ của mục tử, nhưng không đòi phải có ấn tích truyền chức. Việc thực thi những nhiệm vụ này không biến giáo lý viên thành một mục tử, bởi vì nhiệm vụ được thực thi như một bổ sung và chỉ hợp thức do sự uỷ quyền chính thức của các vị Mục tử18.
Mô tả trên đây cũng cần được bổ túc bằng một xác định của Bộ truyền giáo trong dĩ vãng: “Giáo lý viên không phải đơn thuần chỉ là một người giúp đỡ linh mục, nhưng thực sự là chứng nhân của Đức Kitô trong cộng đoàn của mình”19.
4. Phân loại và nhiệm vụ. Giáo lý viên trong các xứ truyền giáo, không những khác biệt với giáo lý viên hoạt động trong các Giáo Hội kỳ cựu, mà còn có những đặc tính và cách thức hoạt động riêng do kinh nghiệm khác nhau giữa giáo đoàn này và giáo đoàn khác; do đó, khó có thể mô tả họ một cách thống nhất và chính xác.
Trên bình diện thực hành, có hai loại giáo lý viên: giáo lý viên trọn thời gian, hiến cả đời mình cho công cuộc Huấn giáo và được chính thức công nhận; giáo lý viên bán thời gian, cộng tác có giới hạn nhưng cũng quí giá. Tỷ lệ giữa hai loại giáo lý viên này thay đổi tuỳ theo địa phương, nhưng từ lâu con số giáo lý viên bán thời gian vẫn có xu hướng đông nhất.
Cả hai loại giáo lý viên đều được trao phó nhiều bổn phận hay nhiệm vụ. Trên bình diện này, chúng ta ghi nhận nhiều đổi thay lớn lao nhất. Phần trình bày tổng quát sau đây xem ra thực tế và khá rõ, giúp hiểu được tình hình hiện nay trong các Giáo Hội trực thuộc BRPD:
– Giáo lý viên với bổn phận chuyên môn dạy giáo lý, thường được trao phó chó những sinh hoạt sau đây: giáo dục đức tin cho người trẻ và người trưởng thành; chuẩn bị các ứng viên và gia đình của họ lãnh nhận những bí tích khai tâm; cộng tác vào những sáng kiến giúp đỡ giáo lý viên, như tĩnh tâm, gặp gỡ… Giáo Hội nào càng phát triển việc tổ chức công tác cho giáo dân, thì lại càng có nhiều giáo lý viên20.
– Giáo lý viên cộng tác dưới nhiều hình thức hoạt động tông đồ với các thừa tác viên có chức thánh trong chân thành và vâng phục. Họ có nhiều nhiệm vụ: từ việc rao giảng Phúc âm cho những người ngoài Kitô giáo đến việc dạy giáo lý cho các dự tòng, việc hướng dẫn cộng đoàn cầu nguyện, nhất là tham dự phụng vụ ngày Chúa nhật khi thiếu vắng các linh mục; từ việc giúp các bệnh nhân đến việc cử hành tang lễ; từ việc huấn luyện các giáo lý viên khác trong các Trung tâm đến việc tháp tùng các giáo lý viên tình nguyện và hướng dẫn các sáng kiến mục vụ; từ việc thăng tiến về nhân bản và công bằng đến việc giúp đỡ những người nghèo khổ, những sinh hoạt tổ chức… Những giáo lý viên này có lợi thế hơn trong một giáo xứ rộng lớn với những cộng đoàn tín hữu cách xa trung tâm; cũng như khi các cha sở, vì thiếu linh mục, đã phải chọn lựa những giáo dân cộng tác toàn thời gian21.
Tính năng động và tình hình xã hội-văn hoá của các Giáo Hội trẻ làm nảy sinh hay duy trì những nhiệm vụ tông đồ khác nhau. Chẳng hạn các thầy cô dạy môn tôn giáo trong các trường học với bổn phận giảng dạy tôn giáo cho các học sinh đã được rửa tội và thực hiện việc rao giảng Phúc âm đầu tiên cho các em chưa phải là Kitô hữu. Họ nắm giữ một vai trò đặc biệt quan trọng tại những nơi nhà nước chấp nhận cho giảng dạy về tôn giáo trong các trường học riêng của mình. Họ cũng nắm giữ một vị trí tương tự và quan trọng tại những nơi có được một hệ thống trường học trực thuộc Giáo Hội, cũng như tại những nơi Giáo Hội đang có gắng khôi phục lại sự hiện diện của mình trong các trường học đã bị quốc hữu hoá.
Cũng vậy, các giáo lý viên ngày Chúa nhật, giảng dạy tôn giáo trong các trường do giáo xứ tổ chức, liên kết với phụng vụ của ngày lễ, nhất là tại những nơi nhà nước không cho phép giảng dạy trong các trường của mình; các giáo lý viên khu phố tại môi trường thành thị; các giáo lý viên linh hoạt cho những cộng đoàn căn bản nhỏ bé; các giáo lý viên cho binh lính, cho tù nhân, cho di dân…
Dựa theo những kinh nghiệm khác nhau và những cảm nhận về Giáo Hội, những nhiệm vụ trên phải được coi như là chuyên biệt của các giáo lý viên, hay như những hình thức phục vụ của giáo dân đối với Giáo Hội và sứ mạng truyền giáo. BRPD coi tính cách đa dạng và khác biệt của những bổn phận hay nhiệm vụ này diễn tả sự phong phú của Chúa Thánh Thần hoạt động trong các Giáo Hội trẻ. Bộ khuyến cáo các Mục tử phải hết sức quan tâm tới những bổn phận và nhiệm vụ ấy. Đồng thời đòi hỏi phải củng cố những bổn phận và nhiệm vụ nào thích hợp với những nhu cầu hiện nay bằng một cái nhìn ưu tiên hướng tới tương lai.
Có một khía cạnh khác không được đánh giá thấp.Thực ra, các giáo lý viên thuộc những hạng người khác nhau, nên khả năng sinh hoạt của họ cũng thay đổi tuỳ theo môi trường và văn hoá mà họ hoạt động.
Chẳng hạn người nam đã lập gia đình dường như thích hợp hơn để chu toàn bổn phận linh hoạt viên của cộng đoàn, nhất là ở những nơi mà hiện nay nền văn hoá vốn coi họ là người đứng đầu trong xã hội. Người nữ thông thường được coi là thích hợp hơn cho việc giáo dục các trẻ nhỏ và thăng tiến tinh thần Kitô hữu nơi nữ giới; người trưởng thành được coi là chín chắn và nhất là vững chắc hơn nếu như đã lập gia đình, với khả năng làm chứng liên tục về giá trị Kitô giáo của hôn nhân; trái lại người trẻ thích hợp hơn cho việc tiếp xúc với các thiếu niên và cho những sáng kiến đòi hỏi nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn.
Ngoài những giáo lý viên giáo dân, còn phải kể đến một số đông các tu sĩ nam nữ đã dấn thân cho việc dạy giáo lý. Nhờ việc thánh hiến, họ có bổn phận làm chứng đặc biệt cho công cuộc truyền giáo và vì thế, họ được mời gọi luôn sẵn sàng và được chuẩn bị một cách riêng biệt cho bổn phận này.
Do đó, các tu sĩ nam nữ chu toàn những nhiệm vụ của giáo lý viên và nhất là nhờ cộng tác chặt chẽ với các linh mục, họ góp phần tích cực vào chương trình hướng dẫn. Vì những lý do kể trên, BRPD cũng đòi hỏi các tu sĩ nam nữ can dự vào những lãnh vực quan trọng của đời sống Giáo Hội, nhất là về chương trình đào tạo và tháp tùng các giáo lý viên22.
5. Viễn tượng phát triển trong một tương lai gần. Khuynh hướng tổng quát được coi là của BRPD và được khuyến khích, đó là duy trì và củng cố khuôn mặt giáo lý viên phải có, không bị ràng buộc với thể loại mà nó lệ thuộc. Giá trị và hậu quả tông đồ của giáo lý viên luôn giữ vai trò quyết định cho sứ mạng của Hội Thánh23.
Khởi đi từ kinh nghiệm của mình mang đặc tính phổ quát, BRPD đưa ra một vài chỉ dẫn nhằm thăng tiến và soi sáng cho suy nghĩ với ý nghĩa sau đây:
Ưu tiên tuyệt đối dành cho phẩm chất. Vấn đề chung được biết đến dường như là tình trạng thiếu hụt những người được chuẩn bị đầy đủ. Mục tiêu đầu tiên và trực tiếp cho tất cả là phải quan tâm đến con người giáo lý viên. Điều đó phải ảnh hưởng cụ thể đến những tiêu chuẩn chọn lưa, tiến trình đào tạo và tháp tùng. Lời của Đức Thánh Cha thật rõ ràng: “Để phục vụ cho nhu cầu Tin mừng cũng như căn bản, cần phải có nhiều người thợ. Mặc dầu quan tâm đến số lượng, nhưng ngày nay, với tất cả năng lực, trước hết phải nhắm tới phẩm chất của các giáo lý viên”24.
– Phải quan tâm tới việc theo đuổi sứ mạng ad gentes (đến với muôn dân) hiện nay25, tương lai của giáo lý viên trong các Giáo Hội trẻ chắc chắn sẽ phải mang lấy đặc tính của lòng nhiệt thành truyền giáo. Để được như vậy, giáo lý viên càng phải luôn được coi như là tông đồ giáo dân ở mọi nơi. Trong tương lai, giáo lý viên phải tiếp tục, như trong dĩ vãng, vượt trổi nhờ vai trò không thể thay thế trong hoạt động truyền giáo ad gentes (đến với muôn dân).
– Xác định một mục tiêu mà thôi chưa đủ, nhưng điều quan trọng là phải chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt được mục tiêu ấy. Điều đó có giá trị đối với phẩm chất giáo lý viên. Vì thế, cần phải ấn định một chương trình cụ thể, phải đem lại một hệ thống thích hợp và những phương tiện tài chánh đầy đủ, phải tìm ra những nhà đào tạo đã được chuẩn bị, hầu bảo đảm cho giáo lý viên được huấn luyện tốt hết sức có thể. Dĩ nhiên, sự quan trọng của các phương tiện và mức độ về phẩm chất thay đổi tuỳ theo khả năng thực sự của mỗi Giáo Hội, tuy nhiên mọi người phải đạt được một mục tiêu tối thiểu, không được lùi bước trước những khó khăn.
Củng cố cán bộ khung những người có trách nhiệm. Người ta thấy trước rằng một số giáo lý viên chuyên nghiệp, được đào tạo trong các trung tâm đầy đủ, dưới sự hướng dẫn của các Mục tử, được đặt vào những chức vụ then chốt cho việc tổ chức dạy giáo lý, họ sẽ cẩn thận huấn luyện những thế hệ mới, dạy bảo và giúp đỡ những người này chu toàn nhiệm vụ. Những cán bộ khung đó phải được tồn tại trong mọi mức độ: giáo xứ, giáo phận và quốc gia; Họ là một bảo đảm cho việc vận hành tốt của một lãnh vực rất cần thiết cho đời sống Giáo Hội.
Ngoài những cách hành động trong viễn tượng đem lại một mùa xuân của các giáo lý viên, BRPD nhận thấy rằng trong một tương lai gần, rất có thể một vài hạng người sẽ phát triển mà người ta hiện thấy được những dấu chỉ báo trước. Cần phải nhận ra gốc tích của những người sẽ đi tiên phong cho ngày mai.
Trong bối cảnh chính xác này, nên đặc biệt khích lệ những giáo lý viên có một tình thần truyền giáo rất nổi bật, “để chính họ cũng trở nên những linh hoạt viên truyền giáo trong những cộng đoàn Giáo Hội của họ và nếu được Chúa Thánh Thần mời gọi từ bên trong và được các Mục tử sai phái, thì họ sẵn sàng đi ra ngoài lãnh địa của mình để loan báo Phúc âm, chuẩn bị các dự tòng lãnh nhận bí tích Rửa tội và góp phần xây dựng những cộng đoàn mới cho Giáo Hội”26.
Con số các giáo lý viên chính thức được mời gọi dạy giáo lý cũng cần phải gia tăng như vậy, vì các Giáo Hội trẻ, trong khi phát triển, phải tăng thêm công tác tông đồ cho hàng giáo dân, phân biệt với công tác của giáo lý viên27. Vì thế, các giáo lý viên chuyên nghiệp rất hữu ích. Trong số họ, cần lưu ý tới những giáo lý viên dấn thân để là hồi sinh tinh thần Kitô giáo nơi các cộng đoàn gồm phần lớn những người đã được rửa tội, nhưng trình độ học hỏi về đạo giáo còn nghèo nàn và đời sống đức tin của họ cũng vậy. Những loại giáo lý viên khác còn đang xuất hiện và cần phải được quan tâm, bởi vì họ sẽ phải đáp ứng với những thách đố mà hiện nay đã thấy được một phần, chẳng hạn như việc đô thị hoá, chương trình học gia tăng đặc biệt hướng tới môi trường đại học, các vấn đề của giới trẻ, phong trào di dân với hiện tượng những người tị nạn. Sự tục hoá phát triển, những đổi thay về chính trị, văn hoá quần chúng được các phương tiện truyền thông hỗ trợ…
BRPD cho biết phạm vi của những viễn tượng trên đây và sự cần thiết không được lẩn tránh, các Mục tử tại địa phương có bổn phận phải chọn lựa cụ thể và phải dần dần thực hiện. Các Hội Đồng Giám Mục và mỗi Giám mục phải thiết lập một chương trình thăng tiến giáo lý viên cho tương lai bằng cách lưu tâm đến những chỉ dẫn ưu tiên và có giá trị cho mọi người, với sự để ý đặc biệt đối với tình trạng khẩn cấp của lãnh vực truyền giáo trong việc đào tạo cũng như trong sinh hoạt của giáo lý viên. Những chương trình này không phải chỉ mang tính cách tổng quát, mà còn phải được cụ thể trong từng hoàn cảnh, hầu đáp ứng những đòi hỏi của địa phương, làm sao cho tất cả các Giáo Hội đều có những giáo lý viên theo nhu cầu hiện nay đòi hỏi; phải phát triển và chuẩn bị các giáo lý viên có khả năng đáp ứng những cần thiết của ngày mai, như đã tiên đoán.
II. LINH ĐẠO GIÁO LÝ VIÊN
6.Sự cần thiết và bản chất của linh đạo giáo lý viên. Giáo lý viên cần phải có một linh đạo sâu xa, nghĩa là sống trong Chúa Thánh Thần, Đấng giúp họ không ngừng canh tân trong căn tính đặc thù của mình.
Sự cần thiết phải có một linh đạo riêng phát xuất từ ơn gọi và sứ vụ của giáo lý viên. Do đó, trong linh đạo giáo lý viên, lời mời gọi nên thánh mang một lý do thuận tiện và đặc sắc. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vui sướng bày tỏ: “Nhà truyền giáo đích thực, chính là một vị thánh”28 Câu nói này có thể được áp dụng ngay cho giáo lý viên. Như mỗi tín hữu, giáo lý viên “được mời gọi nên thánh và truyền giáo”29, nghĩa là thực hiện ơn gọi riêng của mình “với lòng nhiệt thành của các thánh”30.
Linh đạo giáo lý viên liên kết chặt chẽ với thân phận là “kitô hữu” và “giáo dân” vốn cho họ dự phần, theo mức độ của mình, vào chức vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Kitô. Thân phận riêng của giáo dân là tình trạng “tại thế” với “nghĩa vụ riêng là linh hoạt và kiện toàn trật tự trần thế theo tinh thần Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô, nhất là trong việc điều hành trật tự ấy và hoàn tất các nhiệm vụ trần thế”31.
Khi giáo lý viên lập gia đình, đời sống hôn nhân là thành phần của linh đạo. Đúng như Đức Thánh Cha quả quyết: “Giáo lý viên đã lập gia đình phải làm chứng một cách xứng hợp cho giá trị Kitô giáo của hôn nhân, bằng cách sống bí tích qua việc hoàn toàn trung thành và giáo dục con cái một cách có trách nhiệm”32. Linh đạo nối kết với hôn nhân có thể tạo ảnh hưởng thuận lợi và đặc biệt trên chính hoạt động của giáo lý viên. Giáo lý viên sẽ đưa cả vợ con can dự vào việc phục vụ của mình, đến độ cả gia đình thực sự là một tế bào toả lan tinh thần truyền giáo.
Linh đạo giáo lý viên cũng liên kết với ơn gọi tông đồ và được biểu hiện qua một số những thái độ sau: đón nhận Lời Chúa, nghĩa là đón nhận Chúa, Giáo hội và cả thế giới; đời sống trung thực, nhiệt tình truyền giáo; sùng kính Đức Mẹ.
7. Đón nhận Lời Chúa. Chức năng của giáo lý viên nối kết chặt chẽ với việc thông truyền Lời Chúa. Vì thế, khả năng tinh thần đầu tiên của giáo lý viên là đón nhận Lời Chúa, được chứa đựng trong mạc khải, được Giáo hội công bố, được cử hành trong phụng vụ và được sống một cách đặc biệt nơi các thánh33; là gặp gỡ Đức Kitô ẩn giấu trong Lời Chúa, trong Thánh Thể, và trong anh chị em. Sau cùng, đón nhận Lời Chúa cũng có nghĩa là đón nhận Chúa, Giáo Hội và thế giới.
Đón nhận một Chúa Ba Ngôi, Đấng ngự trong đáy lòng con người và đem lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của họ: những xác tín, những tiêu chuẩn, bậc thang các giá trị, quyết định, quan hệ, cư xử... Giáo lý viên phải được lôi cuốn vào lãnh vực của Chúa Cha, Đấng ngỏ lời; của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Đấng chỉ loan báo mọi lời đã nghe được từ Chúa Cha (Ga 8,26 ; 12,49); của Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí và sưởi ấm con tim để giúp hiểu Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và trung thành thực thi Lời Chúa (Ga 16,12-14).
Như thế, linh đạo giáo lý viên bén rễ trong Lời Hằng sống, theo chiều kích Ba Ngôi, như thấy trong ơn cứu độ và trong sứ mạng phổ quát. Điều này bao hàm một thái độ liên kết tự bên trong, hệ tại việc tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu rỗi (1 Tm 2,4); việc hiệp thông với Đức Kitô, bằng cách chia sẻ các “tâm tình” của Ngài (Ph 2,5) và như thánh Phaolô, sống kinh nghiệm về sự hiện diện thường xuyên và khích lệ của Đức Kitô: “Đừng sợ... vì Ta ở cùng con” (Cv 18,9-10), bằng cách để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và biến đổi thành chứng nhân can đảm của Đức Kitô và thành người loan báo Lời Chúa được soi sáng34.
Đón nhận Hội Thánh, giáo lý viên là thành phần sống động của Hội Thánh, góp phần xây dựng Hội Thánh và được Hội Thánh uỷ nhiệm. Lời Chúa được uỷ thác cho Hội Thánh trung thành gìn giữ, đào sâu với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và công bố cho mọi người35.
Hội Thánh - Dân Thiên Chúa và Thân thể Huyền nhiệm của Đức Kitô - đòi hỏi giáo lý viên một ý thức sâu xa về sự phụ thuộc và trách nhiệm, vì giáo lý viên là phần tử sống động và tích cực; Hội Thánh, vì là bí tích phổ quát của ơn cứu độ, nên đòi hỏi giáo lý viên một lòng khao khát sống mầu nhiệm và ân sủng đa dạng của Hội Thánh, để được phong phú và trở nên dấu chỉ sống động trong cộng đoàn anh chị em. Việc phục vụ của giáo lý viên không bao giờ là một hành vi cá nhân hay đơn độc, nhưng luôn mang tính Giáo hội một cách sâu xa.
Việc đón nhận Hội Thánh được bày tỏ qua tình con thảo, sự tận tâm phục vụ và khả năng chịu đau khổ vì Hội Thánh. Đặc biệt qua sự gắn bó và vâng phục Đức Thánh Cha, là trung tâm hiệp nhất và mối dây hiệp thông phổ quát, cũng như gắn bó và vâng phục Đức Giám Mục sở tại, là người cha và người hướng dẫn Giáo hội địa phương. Giáo lý viên phải tham gia một cách có trách nhiệm vào biến cố trần gian của Giáo hội lữ hành, vốn tự bản chất là truyền giáo36, và chia sẻ khát vọng của Hội Thánh là đạt tới sự gặp gỡ chung cuộc và vinh quang với vị Hôn Phu.
Ý thức về Hội Thánh trong linh đạo giáo lý viên, được diễn tả qua tình yêu chân thành đối với Hội Thánh theo gương Đức Kitô, Đấng“đã yêu mến Hội Thánh và phó mình cho Hội Thánh” (Eph 5,25). Đây là một tình yêu chủ động, thúc đẩy giáo lý viên tham gia vào sứ mạng cứu độ, đến nỗi nếu cần, hiến đời mình cho Hội Thánh37.
Sẵn lòng truyền giáo cho thế giới, nơi Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu chuộc, xuất phát từ “nguồn mạch Tình yêu”, nghĩa là từ tình yêu muôn thuở của Chúa Cha38; nơi Ngôi Lời đã dựng lều trong lịch sử để ở với loài người và cứu chuộc họ (Ga 1,14); nơi Thánh Thần được ban tặng để thánh hóa loài người và thiết lập Hội Thánh, để đi đến Chúa Cha nhờ Đức Kitô trong cùng một Chúa Thánh Thần (Ep 2,18)39.
Như thế, giáo lý viên phải ý thức để mở ra và quan tâm đến các nhu cầu của thế giới, nơi mình được sai đến, nơi mình hoạt động nhưng lại không hoàn toàn thuộc về thế giới (Ga 17, 14-21). Điều này có nghĩa là giáo lý viên phải hòa mình vào đời sống của mọi người anh em, không tách biệt hoặc đứng đàng sau, vì sợ khó khăn hay vì thích yên ổn: giáo lý viên phải duy trì ý thức siêu nhiên về cuộc sống, và tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của Lời Chúa, một khi đã được Chúa thốt ra, thì sẽ không trở lại với Ngài, nếu không hoàn tất được mục tiêu của sứ mạng cứu độ (Is 55,11).
Ý thức về sự đón nhận thế giới làm cho linh đạo giáo lý viên mang tính chất “Đức Ái tông đồ”, cũng là đức ái của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành, đã đến để “qui tụ con cái Chúa bị tản mác” (Ga 11,52). Chớ gì giáo lý viên là người có lòng bác ái, khi tiếp xúc với mỗi người anh em, để loan báo cho họ biết họ được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ cùng với toàn thể gia đình nhân loại40.
8.Tính cách thống nhất và đích thực của đời sống. Bổn phận đòi hỏi giáo lý viên phải dấn thân trọn vẹn. Điều hiển nhiên là trước khi loan báo Lời Chúa, giáo lý viên phải làm cho Lời Chúa thành của mình và phải sống Lời Chúa41. “Thế giới (...) đòi hỏi những người rao giảng Phúc âm nói về Thiên Chúa mà họ biết và thân quen, như thể họ đã thấy Đấng Vô Hình”42.
Giáo lý viên không trình bày một khoa học thuần túy nhân loại hay những quan điểm riêng tư, nhưng phải trình bày nội dung đức tin của Hội Thánh, một đức tin duy nhất mà giáo lý viên trước tiên phải sống, phải cảm nghiệm và phải làm chứng43.
Do đó, giáo lý viên phải có một đời sống thống nhất và đích thực. Trước khi dạy giáo lý, họ phải giáo lý viên. Sự thật về đời sống giáo lý viên là dấu chỉ xác định tính cách họ phải có khi thi hành sứ mạng. Thật chẳng tương hợp chút nào, nếu giáo lý viên không sống điều mình dạy, và chỉ giảng và nói về một Thiên Chúa được nghiên cứu, nhưng lại chẳng mấy thân thuộc. Chớ gì giáo lý viên áp dụng cho mình điều thánh sử Marcô đã nói về ơn gọi các tông đồ: “Ngài lập nhóm mười hai để các ông ở với Ngài và Ngài sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14-15).
Đời sống đích thực của giáo lý viên được diễn tả qua kinh nguyện, cảm nghiệm về Thiên Chúa, và sẵn sàng để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải cố gắng, phải sắp xếp mọi sự trong ngoài, sao cho thích hợp với hoàn cảnh cá nhân và gia đình của từng người. Chúng ta có thể vịn cớ giáo lý viên, với tư cách là giáo dân, phải sống trong các điều kiện không cho phép tổ chức đời sống thiêng liêng như người được thánh hiến, để rồi bằng lòng với một nếp sống khiêm tốn hơn. Trong mọi hoàn cảnh thực tiễn của cuộc sống, trong lao động cũng như trong thừa tác vụ, tất cả mọi người - linh mục, tu sĩ, giáo dân - không những có thể kết hiệp mật thiết với Chúa và sắp xếp để cầu nguyện thực sự, mà còn có thể tạo cho mình những khoảnh khắc thinh lặng để đi sâu vào việc chiêm ngắm cõi vô hình. Đời sống thiêng liêng càng chân thật và sâu xa, thì chứng từ của giáo lý viên càng hiển nhiên và hoạt động của họ càng hữu hiệu hơn.
Cũng vậy, điều quan trọng là tự bên trong, giáo lý viên ngày càng lớn lên trong an bình và niềm vui của Đức Kitô để trở nên con người hy vọng, can đảm hướng về điều cốt yếu (Rm 12,12). Quả thật, Đức Kitô là “niềm vui của chúng ta” (Ep 2,14). Ngài ban niềm vui của Ngài cho các tông đồ, để “niềm vui của họ được nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Vậy chớ gì giáo lý viên, nhân danh Hội Thánh, là người gieo niềm vui và hy vọng phục sinh. “Quà tặng quí giá nhất mà Hội Thánh có thể trao ban cho thế giới lạc hướng và lo âu hôm nay, là đào tạo những Kitô hữu đích thực và hạnh phúc trong đức tin của mình”44.
9. Nhiệt thành truyền giáo. Trong các xứ truyền giáo, giáo lý viên thường sống và tiếp xúc với nhiều người không phải là Kitô hữu; do bí tích thánh tẩy và ơn gọi đặc biệt của mình; giáo lý viên phải nghe thấy như Chúa nói với mình những lời sau đây: “Ta còn nhiều chiên khác không thuộc về ràn này, Ta phải đi dẫn chúng về” (Ga 10,16) ; “Hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16,15).
Hơn nữa, để có thể xác quyết như thánh Phêrô và Gioan trước Công Nghị: “Chúng tôi không thể im lặng về điều mình đã thấy và đã nghe” (Cv 4,20) và để thực hiện lý tưởng của thừa tác vụ tông đồ như thánh Phaolô: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5,14), giáo lý viên phải ý thức sâu xa về truyền giáo và công cuộc Phúc Âm hóa. Ý thức này sẽ trở nên phong phú trong hoạt động tông đồ nếu có được một vài tư cách căn bản: trước hết giáo lý viên phải xác tín mạnh mẽ, phải nhiệt thành và can đảm, không bao giờ xấu hổ vì Tin Mừng (Rm 1,16). Mặc cho những kẻ khôn ngoan thế gian tìm kiếm những điều lợi lộc và tức thời, giáo lý viên chỉ lấy làm vinh dự trong Đức Kitô, Đấng ban cho họ sức mạnh (Col 1,29) và không muốn giảng dạy điều gì khác ngoài “Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). Như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo quả quyết rất chính xác “việc nhận biết và yêu mến Đức Kitô khơi dậy nơi chúng ta khát vọng loan báo về Ngài, Phúc Âm hóa và giúp mọi người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đồng thời, luôn cảm thấy phải đào sâu đức tin này hơn”45.
Ngoài ra, giáo lý viên còn phải có được quyết tâm của vị Mục tử Nhân lành sẵn sàng đi tìm con chiên lạc “cho đến khi thấy được nó” (Lc 15,4), hoặc quyết tâm của người đàn bà “cẩn thận tìm kiếm đồng tiền bị đánh mất cho đến khi thấy được nó” (Lc 15,8-9).
Quyết tâm này nảy sinh lòng nhiệt thành tông đồ “Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu vớt được một số người. Vì Tin Mừng tôi làm tất cả những điều ấy” (1 Cr 9,22-25 ; x. 2 Cr 12,15); “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Sự khẩn thiết, mà thánh Phaolô đã cảm nhận, có thể giúp cho giáo lý viên thêm nhiệt thành. Sự nhiệt thành này là hậu quả thiết yếu của ơn gọi đặc biệt nơi giáo lý viên, cũng như của ý muốn đáp trả và dấn thân loan báo Đức Kitô với lòng chân thành, đồng thời cộng tác tích cực vào việc xây dựng và phát triển giáo đoàn46.
Cuối cùng, tinh thần truyền giáo đòi hỏi giáo lý viên phải in sâu vào tâm khảm dấu chứng của lòng trung thực là thập giá vinh quang. Đức Kitô mà giáo lý viên học biết, là Đấng “chịu đóng đinh” (1 Cr 2,2); Đấng mà giáo lý viên vẫn loan báo là “Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23). đã được Chúa Cha cho phục sinh sau khi chết ba ngày (xem Cv 10,40). Vì thế, chớ gì giáo lý viên biết sống mầu nhiệm sự chết và sống lại của Đức Kitô với niềm hy vọng, mỗi khi cảm thấy bị giới hạn và đau khổ vì những khó khăn trong gia đình, vì những cản trở trong việc phục vụ tông đồ, với ý hướng đi trọn con đường Chúa đã đi: “Tôi hoàn tất trong thân xác tôi những đau khổ Đức Kitô đã chịu vì lợi ích cho thân thể của Ngài là Hội Thánh” (Cl 1,24)47.
10.Tinh thần Đức Maria. Do ơn gọi đặc biệt, Mẹ Maria nhìn thấy Con Thiên Chúa “lớn lên trong khôn ngoan và ân sủng” (Lc 2,52). Mẹ là vị Thầy đã dạy cho Chúa Giêsu “hiểu biết về Kinh Thánh và ý định của Thiên Chúa đối với dân Ngài qua dòng thời gian, trong sự tôn thờ Chúa Cha”48. Đàng khác. Mẹ là “người môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu”49. Như thánh Augustinô đã xác quyết: đối với Đức Maria, được làm môn đệ thì quan trọng hơn là được làm mẹ50. Chúng ta cũng có thể hân hoan xác quyết một cách chính đáng rằng Mẹ là “quyển giáo lý sống động”, “là mẹ và mẫu gương cho giáo lý viên”51.
Linh đạo của giáo lý viên, cũng như của mỗi Kitô hữu và nhất là của mỗi tông đồ, phải trau dồi tinh thần Đức Maria. Trước khi giải thích cho người khác biết vai trò của Mẹ trong mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh52, giáo lý viên phải sống thân mật với Mẹ và, cùng cộng đoàn, biểu lộ một lòng chân thành sùng kính Mẹ53. Chớ gì giáo lý viên tìm thấy nơi Mẹ mẫu gương đơn sơ và hữu hiệu để noi theo và giúp kẻ khác noi theo: “Đời sống của Đức Trinh Nữ là một gương sáng về tình mẫu tử. Tình mẫu tử ấy phải là động lực cho tất cả những ai, cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Hội Thánh, để tái sinh nhân loại”54.
Việc rao giảng Lời Chúa luôn gắn liền với việc cầu nguyện, cử hành bí tích Thánh Thể, hiệp thông huynh đệ. Giáo hội sơ khai, quây quần bên Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu (Cv 1,14) đã sống thực tại phong phú này (Cv 2-4).
GHI NHẬN.CĐ. BÊTANIA THỦ ĐỨC. NGÀY 01/12/2013
NỮ TU MARIA ANNA TỐNG THỊ HƯỜNG
DÒNG CON ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
PHÚ XUÂN- PLEIKU



  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

0 nhận xét: