Được tạo bởi Blogger.

Giới thiệu về tôi

Blogger templates

RSS

Pages

GIÁO LÝ VIÊN TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THỜI ĐẠI:

A. DẪN NHẬP:
Trước những tình trạng sống đạo ngày nay, chúng ta nhớ lại lời mời gọi của Chúa Giêsu trước khi về trời, Chúa Giêsu trao cho các môn đệ “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”( Mc 16,15 ).Mệnh lệnh này bắt  nguồn bắt nguồn một cách sâu xa từ chính tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tình yêu ấy trở thành động lực thúc đẩy Giáo Hội cần phải có kế hoạch rao giảng Tin Mừng, để giúp con người tin vào Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa, Đấng mang lại ơn cứu độ. Đó là nhiệm vụ của các mục tử, các tu sĩ, giáo lý viên và của mỗi người chúng ta. Giáo lý viên là đối tượng đáng để cho chúng ta quan tâm, vì họ đang đứng trước những thách đố tạo ra vấn đề khó giải quyết, những thách đố mà làm sao để có những định hướng tốt cho việc rao giảng Tin Mừng. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu tình trạng của thế giới và cùng tìm những phương hướng giúp cho giáo lý viên trong việc loan báo Tin Mừng.
B. NỘI DUNG:
I. GIÁO LÝ VIÊN TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA THỜI  ĐẠI:
1 Thách đố về xã hội:
1.1. Nền kinh tế thị trường:
Xã hội ngày nay đang trên đà phát triển, con người có xu hướng chạy theo đồng tiền, chạy theo những nhu cầu giả tạo về mặt vật chất. Do đó, con người có xu hướng coi trọng nhu cầu vật chất hơn là những giá trị tinh thần. Trong gia đình, hầu hết cha mẹ đều đầu tắt mặt tối với những công việc của mình để kiếm tiền. Họ coi việc đáp ứng nhu cầu về vật chất cho con cái là bổn phận hàng đầu, mà quên đi trách nhiệm lớn hơn, thiết yếu hơn đó là yêu thương chăm sóc gia đình, con cái. Bên cạnh đó không thiếu những người làm cha làm mẹ chưa sống đúng vai trò của mình đối với con cái, có những gia đình cha mẹ ly thân, ly dị dẫn đến con cái chịu mọi hậu quả mà lứa tuổi các em không đáng phải lãnh chịu. Có nhiều em đi bụi đời, đời sống tâm linh của các em cũng bị những lỗ hổng. Đây là một vấn đề đặt ra cho công việc Huấn giáo ngày nay.
1.2. Thế giới của khoa học kỹ thuật:
Thế giới ngày nay là thế giới của khoa học kỹ thuật, thế giới của sự bùng nổ thông tin. Mạng lưới Internet trở nên phổ biến, là phương tiện liên lạc và giúp tìm kiếm tư liệu học tập. Nhưng giới trẻ đã lạm dụng phương tiện truyền thông này để “ chát”, để  chơi “ Game” và không biết làm gì khác. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của nhiều bạn trẻ, đặc biệt trẻ ở những nơi trung tâm thành thị.
Với mạng lưới thông tin nở rộ này, một sự kiện xảy ra ở bất cứ một nơi nào đó thì chỉ trong tích tắc tất cả thế giới đều biết, do các hãng thông tin phát nhanh từ truyền hình, mạng internet đưa tin. Còn các nhu cầu khác cũng vậy, chẳng phải đi đâu xa, cần gì chỉ gọi điện thoại là có người đem đến đáp ứng nhu cầu ngay. Thật là một xã hội văn minh, đầy đủ tiện nghi để  phục vụ cho đời sống con người. Sự phát triển này có thể làm cho những người ở rất xa nhau vẫn có thể tiếp xúc với nhau, gặp nhau mà không cần phải mất nhiều thời gian vẫn gặp nhau được.
Trong hiến chế Vui Mừng và Hy vọng nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật đối với sự ra đời và phát triển nền văn hóa hiện đại. Não trạng khoa học phát sinh từ đó “ biến đổi sâu xa tình trạng văn hóa và cách suy tư của con người”. Những phương pháp thực nghiệm và khoa học này ảnh hưởng mạnh mẽ lên con người hiện đại.
1.3. Một thế giới năng động của giới trẻ:
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của mạng lưới thông tin, tạo điều kiện cho người trẻ dễ dàng tiếp xúc, hấp thụ kịp thời với những biến chuyển không ngừng của thế giới. Tuy nhiên, có nhiều điểm tốt giúp phát triển trí tuệ, nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những điều tiêu cực, ảnh hưởng không ít tới đời sống của bạn trẻ ngày nay.
  • Tích cực:
    • Giới trẻ ngày nay ham học hỏi, có nhiều sáng tạo, cập nhật hóa những kiến thức, thông tin mới của xã hội cũng như trong cuộc sống.
    • Những tiếp xúc với công nghệ mới cũng phần nào làm cho người trẻ năng động hơn, nhanh nhẹn, hoạt bát hơn.
    • Điều đó cũng gây nên sự kích thích tính tò mò của người trẻ, khiến họ hăng hái tìm tòi, tiếp xúc với những gì mới lạ. Chính những cái mới lạ đó hấp dẫn và thu hút người trẻ rất mạnh.
  • Tiêu cực:
Tuy nhiên, bên cạnh những điều tích cực đó, người trẻ cũng khó có thể tránh được những điều tiêu cực, nhất là về khía cạnh tâm linh, niềm tin tôn giáo của mình:
    • Chính khi tiếp xúc quá nhiều với những công nghệ mới, người trẻ một cách nào đó đã dần quên đi niềm tin, sao lãng đời sống tâm linh, thậm chí có thể dẫn đến chối bỏ niềm tin của mình.
    • Ngày này, xã hội cũng có nhiều trào lưu lôi cuốn, dẫn đưa tuổi trẻ vào chốn ăn chơi sa đọa như: ma túy, rượu chè, cờ bạc, thuốc lắc, games vv..làm hủy hoại cuộc đời tươi trẻ của biết bao bạn trẻ.
    • Khi tiếp xúc nhiều với công nghệ, với sự phát triển của khoa học, người trẻ rất ít khi coi trọng thế hệ đi trước, thậm chí còn coi thường thế hệ lớn tuổi với những kinh nghiệm hữu ích của họ. Vì, người trẻ cho rằng họ đang nắm bắt những kiến thức hiện đại nhất, nên kiến thức và kinh nghiệm của thế hệ trước chỉ là chuyện hoài cổ, xưa rồi!
    • Tuy nhiên, cũng có nhiều em tránh được những cạm bẫy nguy hiểm của đà tiến công nghệ để lo học hành. Nhưng vấn đề khác xảy ra là các em lại dễ dàng đi vào cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết đến mình và sống cho mình mà thôi.
Tóm lại: Nhìn vào xã hội ngày nay, cả một thế hệ những người trẻ dường như bị bao trùm bởi một nền văn hóa gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Một nền văn hóa dẫn con người đến cô đơn, bất an, bất hạnh. Nguy hiểm hơn là người ta đánh mất đi ý nghĩa cuộc đời, cũng bởi không có đời sống nội tâm họ đánh mất định hướng cuộc đời, không biết sống–chết rồi sẽ ra sao? Đây là một vấn nạn lớn không chỉ nguy cơ cho người trẻ, nhưng còn là một nỗi nguy cơ chung cho cả nhân loại ngày nay đang trong đà tiến triển toàn cầu hóa.
2. Thách đố về Giáo Hội:
2.1. Đời  sống thiêng liêng:
  • Ngày nay, nhiều người- nhất là những người trẻ, không còn chú trọng đến đời sống nội tâm nữa. Cách cầu nguyện của họ chỉ chuyện xin ơn. Họ đến nhà thờ, dự lễ, đi hành hương...là để xin ơn. Xin hết ơn này đến ơn khác, làm như Thiên Chúa là một cái kho đáp ứng mọi nhu cầu của họ. Mà họ không nghĩ rằng, họ cần phải đến đó để để có giờ sống với Chúa cách thân mật, để bày tỏ tâm tình vui, buồn trong cuộc sống, để thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa vì biết bao ơn lành Người đã ban cho.
  • Đọc kinh trong gia đình: Với một số người lớn tuổi kinh hạt là một phương tiện hữu hiệu để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng; còn với một số người trẻ cho rằng đó là công việc của những “ông già, bà lão”. Họ không còn thuộc ngay cả một số kinh rất căn bản. Bởi một số gia đình đã bỏ những nếp sống đạo đức trong gia đình, như việc đọc kinh cầu nguyện chung với nhau vào buổi tối…
  • Những người trẻ hôm nay mất cảm thức về tâm linh. Họ không còn biết cầu nguyện là gì, tham dự thánh lễ như một cái máy. Họ đến nhà thờ vào ngày Chúa Nhật cốt để chu toàn bổn phận, để khỏi bị người khác chê cười. Thậm chí có nhiều bạn trẻ đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa Nhật mà không dám tắt máy điện thoại. Họ đi làm, đi chơi cả tuần nhưng vẫn tiếc với Chúa chỉ 1 giờ, đến tham dự Thánh lễ Chúa Nhật cũng không trọn vẹn, vì phải bận tâm với cái máy điện thoại cứ reo liên tuc. Họ bận tâm tìm gặp nhau chứ đâu có tìm gặp Chúa! Nhiều tín hữu giữ đạo theo hình thức, theo cảm tính chứ không ý thức mình là Kitô hữu.
2.2. Đời sống đức tin:
Sống trong một thế giới tục hóa liệu các tín hữu còn giữ được phẩm tính đích thực của người Kitô hữu không? Đây là thách đố không nhỏ đối với Kitô hữu trong môi trường xã hội hôm nay.
  • Liệu người tín hữu còn là một hình ảnh sống động của Đức Giêsu cho thế giới hôm nay hay không? Liệu họ còn ý thức được họ là Đền thờ của Chúa Thánh Thần không? Ý thức được như vậy họ đã làm gì và họ phải làm gì để sống xứng đáng hơn? Có nhiều người trẻ thậm chí khi đi ăn cơm bên ngoài không dám làm dấu Thánh Giá, vì ngại hoặc vì sợ bị người khác để. Họ không dám tuyên xưng niềm tin của mình giữa nơi công cộng. Trong khi các anh em Tin Lành, anh em Hồi Giáo và những tín đồ của các tôn giáo khác sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của mình. Họ không ngại đem Kinh Thánh giảng dạy ở nơi công viên, Hay phủ phục thờ lạy ngay giữa nơi làm việc của mình.
  • Được đặt vào môi trường sống và làm việc người Kitô hữu làm gì khi đứng trước những bất công ? Họ đã lên tiếng hay tránh né chỉ vì sợ mất dang dự, mất việc làm, mất chỗ đứng? Nhiều Kitô hữu chỉ vì miếng cơm manh áo mà nhiều khi thấy sự việc bất công vẫn không dám lên tiếng bênh vực cho chân lý. thậm chí có người còn ngả theo khuynh hướng xấu chỉ vì lợi ích cá nhân. Họ chấp nhận làm những việc trái với lương tâm để được hưởng lợi lôc, được thăng tiến công - danh mà không cần quan tâm đến lề luật và tiếng lương tâm.
  • Với những dấu chỉ thời đại thì sao? Thiên tai, bão lũ, động đất, chiến tranh, bệnh tật, tai nạn…xảy ra khắp đó đây. Người tín hữu liệu có nhận ra đó là một dấu chỉ của Chúa hay không? Và Người đang đánh động, mời gọi họ hãy trở về với cuộc sống lành mạnh, lương thiện để cải thiện lại môt trường sống của họ. Con người ngày nay đang sống trong sự bao bọc của một môi trường đầy ô nhiễm: ô nhiễm bởi khí hậu,  bởi những nguồn nước thải…Tất cả đó là hậu quả của số đông người sống vô lương tâm vô kỷ luật. Bởi vậy, đã sinh ra biết bao bệnh tật, chết chóc, khổ đau. Căn bệnh thế kỷ xảy ra cho đến nay vẫn chưa tìm được thuốc chữa.
Người tín hữu hôm nay, khi đối mặt với cuộc sống mưu sinh, cuộc sống xã hội đòi họ phải luôn sống tỉnh thức để có thể suy nghĩ và hành động theo đức tin và luân lý. Sống tỉnh thức mới có đủ can đảm và sáng suốt để hành động  ngược lại với quan niệm lệch lạc của xã hội ngày nay.
2.3. Đời sống xã hội:
  • Tiến trình toàn cầu hóa kinh tế; sự bất ổn giá cả thị trường . Những người nghèo, người có cuộc sống khó khăn lao mình vào việc kiếm sống. Không thiếu những thiếu niên phải đi làm trước tuổi lao động. Chỉ vì cuộc sống quá khó khăn, cha mẹ không đủ tiền bao cấp cho con cái trong thời buổi kinh tế toàn cầu hóa. Bên cạnh đó có không biết bao nhiêu người giầu có sang t rọng sống hưởng thụ xa hoa, vô trách nhiệm. Thậm chí có nhiều kẻ làm giàu vô lương tâm phi đạo đức. Họ sẵn sang bóc lột sức lao động của người khác mà không chút áy náy. Như vậy, mỗi ngày tạo thêm hố sâu ngăn cách giàu nghèo.
  • Tại Việt Nam bùng phát hiện tượng di dân, do thiên tai bão lũ. Người ta đổ xô về chốn chốn thành thị để kiếm sống, lượng người quá tải, chuyện gì sẽ xảy ra? Tệ nạn xã hội, những băng đảng có thể nảy sinh từ chính môi trường này.
  • Việt Nam thời mở cửa, trẻ em và phụ nữ thành nạn nhân của những tệ nạn xã hội.
Với tình hình trên đây, huấn giáo của Giáo Hội cần quan tâm hơn đến vấn đề luân lý và đạo đức của con người thời đại.
3. Thách đố về việc dạy giáo lý:
Khi nói về những khó khăn trong việc dạy giáo lý, chúng ta gặp phải những vấn đề cả về phía người dạy (giáo lý viên) lẫn người học (học viên giáo lý):
  1. Về phía giáo lý viên:
Giáo lý viên là giáo dân được Đức Giám Mục qua cha xứ trao phó nhiệm vụ giúp cho người chưa biết Chúa, hay đã biết Chúa rồi được nhận biết Chúa, yêu mến Chúa hơn. Vì vậy, có nhiều giáo lý viên chưa được đào tạo kỹ lưỡng về về mặt sư phạm cũng như về nội dung giáo lý. Như thế, đương nhiên họ không thể không gặp những khó khăn trong công việc.
  • Ngày nay còn nhiều Giáo xứ giáo lý viên chưa thực sự có đầy đủ kiến thức về giáo lý, vì chưa được đào tạo một cách kỹ lưỡng, nên có khi gặp phải những thắc mắc từ phía học viên họ không thể giải quyết được. Trong việc dạy giáo lý do còn thiếu những trang thiết bị cần thiết, thiếu những dụng cụ, hình ảnh minh họa, giờ học còn khô khan, chưa thu hút trẻ. Ngoài ra, còn có nhữn giáo lý viên chưa cập nhật, hay chưa tiếp cận với những thông tin về Giáo Hội cũng như Xã hội, khoa học, văn hoá, tôn giáo… Do đó, giáo lý viên gặp phải  không ít khó khăn về kiến thức, về sư phạm trong khi truyền đạt cho học viên.
  • Với nền khoa học kỹ thuật phát  triển, nhiều khi giáo lý viên không theo kịp với thời đại, với những thông tin mới, nhất là khoa sư phạm và tâm lý.
  • Do ảnh hưởng bởi nền kinh tế thị trường, giáo lý viên cũng phải bươn chải với cuộc sống mưu sinh, dạy giáo lý chỉ là việc thiện nguyện nên giáo lý viên chưa dành thời gian đủ cho việc chuẩn bị một giờ lên lớp. Đi dạy giáo lý là việc làm thiện nguyện nên cũng tùy thuộc vào nhiệt tình của mỗi giáo lý viên và từng lúc.
  • Giáo lý viên chưa dành thời gian đủ để hỏi thăm, quan tâm đến đời sống cá nhân của các em. Nhất là các em cá biệt, những em hay nghỉ học .v.v..
  • Nhiều Giáo xứ còn thiếu cơ sở vật chất như: phòng học cho từng lớp, hay sân chơi, và cả những phương tiện cần thiết cho việc dạy và học: bảng viết, tranh ảnh minh họa, dụng cụ trò chơi…Vì thế, chưa đáp ứng được việc tổ chức và việc dạy/ học giáo lý tốt.
    1. Về phía học viên: 
Ngày nay, giáo lý không được các em chú trọng nhiều vì:
  • Bị thu hút bởi những trò chơi và dịch vụ sinh hoạt xã hội
  • Giáo lý không được các em chú tâm, ngay cả nhiều cha mẹ không coi đó là quan trọng. Thậm chí có những cha mẹ không ủng hộ việc các em đi học giáo lý, vì giáo lý không thiết thực cho đời sống vật chất. Vì thế, các em đến lớp để lấy lệ, hay tìm cách trốn học là chuyện bình thường.
II. CÁC ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆC DẠY GIÁO LÝ:[1]
1. Mục tiêu của việc dạy giáo lý:
§  Xem việc dạy giáo lý là công việc phục vụ đích thực cho việc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, vì thế cần nhấn mạnh đến đặc tính truyền giáo.
§  Như truyền thống của Giáo Hội, việc dạy Giáo lý phải luôn dành ưu tiên cho nhi đồng, thiếu nhi, thiếu niên, giới trẻ và trưởng thành, cách riêng từ người trưởng thành trở xuống.
§  Theo gương các Giáo Phụ, việc dạy giáo lý phải rèn luyện nhân cách của người tín hữu, và như vậy công việc trở thành trường học thực sự và là nét đặc trưng của sư phạm Kitô giáo.
§  Việc dạy giáo lý phải nhằm loan báo các mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo, cổ võ việc cảm nghiệm đức tin về đời sống Ba Ngôi trong Đức Kitô như là trung tâm của đời sống đức tin.
§  Việc dạy giáo lý phải ưu tiên cho việc đào tạo nhà giáo dục Kitô, để họ có một đức tin sâu sắc.
2.Tầm quan trọng của việc đào tạo Giáo lý viên[2]:
§  Huấn giáo không thể đạt kết quả tốt nếu không được sử dụng bởi những giáo lý viên được đào tạo kỹ lưỡng. Ngoài ra việc đổi mới sách học, hoặc đổi mới những phương tiện huấn giáo, cũng góp phần nâng cao kết quả cho việc dạy giáo lý[3].
§  Việc đào tạo GLV làm cho họ có khả năng thông truyền sứ điệp phúc âm tốt hơn. Huấn giáo phải đưa người học đến với Đức Kitô và gắn bó với Đức Kitô hơn.
3. Những tiêu chuẩn đào tạo giáo lý  viên:
§  Với những thách đố và bóng tối của xã hội thời nay, cần phải quan tâm đào tạo một người giáo lý viên có một đức tin sâu xa, một căn tính Kitoo hữu và Giáo Hội rõ nét, một óc nhạy bén cao về xã hội[4].
§  Cần đạo tạo những giáo lý viên trở nên một con người Kitô hữu toàn diện. Vì giáo lý viên không những là thầy dậy, nhà giáo dục và còn là một chứng nhân của đức tin nữa[5].
§  Đào tạo Kinh Thánh và Thần Học, làm cho GLV có một hệ thống kiến thức về sứ điệp Kitô giáo, mà mầu nhiệm trọng tâm là Đức Giêsu Kitô. Việc đào tạo bao gồm ba thời kỳ lớn trong lịch sử cứu độ như: Cựu ước, Cuộc đời Chúa Giêsu, lịch sử Giáo Hội vv.. để giúp cho đức tin của GLV trưởng thành hơn.[6]
§   Đào tạo sư phạm mang một tầm quan trọng căn bản. Cần đào sâu, hướng dẫn cho giáo lý viên các kỹ năng sư phạm cơ bản và hiện đại. Biết được tâm sinh lý của từng lứa tuổi. Biết ca hát, kể chuyện, đóng kịch, tạo chủ đề giúp cho giờ giáo lý được phong phú và sinh động hơn.
§  Người GLV phải có phong cách riêng để dạy giáo lý: luôn vui tươi, hoạt bát, biết hy sinh, chịu đựng dịu dàng. Cần có lòng bác ái, bao dung, tế nhị, và luôn quan tâm đến mọi người.
§  Ngoài ra, việc đào tạo giáo lý viên  cũng cần quan tâm đến tri thức như: đạo đức, con người, sự trưởng thành nhân bản, trưởng thành nhân cách Kitô giáo. Thêm nữa, cần giúp giáo lý viên hiểu biết về các nghành khoa học, xã hội, văn hóa, nghệ thuật, nhân văn, các mạng lưới thông tin đại chúng và các tôn giáo khác[7]
§  Các cha xứ cần có sự quan tâm hơn tới đời sống của các giáo lý viên, vì họ là những cánh tay nối dài của các ngài. Cần có một sự quan tâm, động viên, khích lệ tinh thần để họ hăng say dấn thân hơn cho sứ mạng phục vụ Tin Mừng Nước Chúa.


4. Định hướng cho việc dạy giáo lý:
4.1. Thiện cảm với học viên:
Bất cứ công cuộc giáo dục nào cũng chỉ có thể thành tựu nếu đặt trên nền tảng của thiện cảm và yêu thương. Nhất là đối với thanh thiếu nhi. Giáo dục là cảm hóa, và chỉ có tình yêu mới có sức mạnh cảm hóa. Điều này càng đúng đối với công cuộc giáo dục đức tin, vì Thiên Chúa là tình yêu, và yêu thương là giới luật trọn hảo của Kitô giáo.
4.2.Hiểu tâm lý cúa học viên:
Để việc dạy dạo lý thực sự mang lại kết quả, ngoài những kiến thức cần nắm vững, giáo lý viên cũng cần phải biết mình đang dạy cho đối tượng cụ thể nào. Nhất là phải hiểu tâm lý lứa tuổi của học viên mà mình đang dạy để có một phương hướng giảng dạy cho thích hợp, và cũng là để học viên tiếp thu bài cho tốt. Cụ thể:
  • Lứa tuổi nhi đồng ( tuổi 6-9tuổi):
Ở độ tuổi này, các em thích bắt chước người lớn, thích vui chơi, thích chơi chung với bạn bè và không thích độc lập một mình. Các em cũng thich vẻ đẹp của thiên nhiên. Các em cũng rất dễ tiếp thu những kiên thức đơn giản và dễ hiểu.
Do đó, trong việc dạy giáo lý, giáo lý viên cần kể những câu chuyện nhiều màu sắc, truyền đạt cho các em những kiến thức cơ bản về đạo, về niềm tin. Đặc biệt là truyền đạt sao cho các em hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho các em. Vì những kiến thức các em tiếp thu trong giai đoạn này sẽ ảnh hưởng sâu đến đời sống, đến cảm nghiệm của các em sau này. người giáo lý viên phải hết sức thận trọng khi truyền đat lại kiến thức cho các em, để tránh cho các em những hiểu lầm về Thiên Chúa.
  • Lứa tuổi thiếu niên (tuổi 9-16 tuổi): chia làm 2 giai đoạn
§  Độ tuổi từ 9 -11:
Đây là lứa tuổi thích hoạt động và khám phá, thường hướng ngoại, dễ bị lôi cuốn bởi ngoại cảnh. Trẻ cũng chú trọng hơn đến luật lệ. Các em cũng thích chuyện phiêu lưu mạo hiểm, thích tụ tập chơi với bạn bè nên rất dễ bị ảnh hưởng nhau.
Nhiệm vụ của giáo lý viên là hướng dẫn các em chơi những trò chơi chung và bổ ích. đồng thời hướng dẫn các em để các em đi sâu vào mầu nhiệm, vào tình yêu Thiên Chúa hơn là những chú ý đến hình thức, đến ngoại cảnh bên ngoài.
§  Độ tuổi từ 11-16:
Độ tuổi này có những thay đổi và mất quân bình về tâm lý, thích sống với những ước mơ màu hồng, tâm lý theo giới cũng phát triển khác nhau. độ tuổi này cũng mang những hoài bão, nuôi lý tưởng cao cả.
Nhiệm vụ cảu giáo lý viên là truyền đạt những kiến thức hết sức mạch lạc. đồng thời giáo lý viên cũng cần sống là một tấm gương sáng để lôi cuốn các em theo đổi một lý tưởng cao cả, vì đây cũng là lứa tuổi để ươm trồng và phát triển ơn gọi. Quan trọng hơn là cần có một chương trình giáo lý tiếp tục sau khi các em đã Thêm Sức.
  • Lứa tuổi vị thành niên (độ tuổi 16-18):
Lứa tuổi này đã suy nghĩ chín chắn, ham học hỏi, hay đặt avân đề và chỉ thỏa mãn khi được giải đáp hợp lý và khúc chiết. độ tuổi này đã ý thức được cái “tôi” của mình cùng với quyền lợi và trách nhiệm. độ tuổi này cũng kính phục những người đạo đức, nhưng cũng rất để ý tới trình độ học vấn, tri thức.
Đối với độ tuổi này, đòi hỏi giáo lý viên phải là người có kiến thức tổng hợp. Các em rất cần được cảm thông, hiểu rõ tâm tình, nguyện vọng, cũng như những động viên, khích lệ của người lớn. Vì vậy, giáo lý viên trước hết phải là một tấm gương sáng về đời sống đạo đức, đồng thời cũng là một người bạn để cùng đồng hành, chia sẻ với các em. Giáo lý viên bây giờ chính là thần tượng của các em.
  • Lứa tuổi thanh niên (độ tuổi 18-25):
Ở độ tuổi này thích tự khẳng định mình, thích tự lập, không ngại khó. họ cũng muốn được người khác tôn trọng. Ở độ tuổi này cũng có những lo lắng về hôn nhân và sự nghiệp. nếu thành công họ sẽ khẳng định được chỗ đứng của mình trong xã hội; ngược lại họ sẽ dễ chcán nản và buông xuôi khi thất bại. Nguy hiểm hơn có thể dẫn đến tình trạng sống đạo một cách hời hợt.
Độ tuổi này rất khó cho giáo lý viên trong việc định hướng, đưa đường lối giảng dạy thích hợp. Vì thế nhiệm vụ của giáo lý viên đối với độ tuổi này là tìm đến với họ, chia sẻ, khích lệ, động viên họ khi họ thành công cũng như thất bại trong cuộc sống. Giáo lý viên phải luôn là người bạn, để ở bên và đồng hành với họ.
4.3. Giáo lý viên cần có đời sống nội tâm.
  • Muốn dạy giáo lý đạt hiệu quả cao, người giáo lý viên cần thống nhất đời sống nhờ năng kết hiệp với Chúa Giêsu qua cầu nguyện, qua cảm nhận và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Khi ta có được đời sống thiêng liêng sâu xa chứng từ sống động nơi giáo lý viên càng hiển nhiên, hoạt động càng hữu hiệu, càng thuyết phục hơn.
  • Giảng dạy giáo lý không chỉ là truyền thông kiến thức Kitô giáo, cho bằng chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ và sống với Chúa Giêsu. Do đó, dù bận rộn với cuộc sống đời thường, nhưng giáo lý viên cần có những giây phút dành riêng để gặp gỡ, trao đổi, trò chuyện với Chúa Giêsu và sẵn sàng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn đời sống mình.
  • Đời sống nội tâm có được là do sự thiện chí của giáo lý viên qua việc học hỏi Kinh thánh, đọc và suy gẫm lời Chúa mỗi ngày, đọc sách thiêng liêng, thường xuyên tham dự Thánh lễ và lãnh nhận bí tích, yêu mến kinh mân côi, tham dự những buổi tĩnh tâm, năng xưng tội… đó là những việc giáo lý viên có đủ khả năng và thời giờ để thực hiện. Nhờ gắn bó và kết hiệp với Chúa Giêsu, mới đủ sức mạnh và lòng nhiệt thành để chu toàn ơn gọi giáo lý viên của mình.
4.4. Nội dung giáo lý phổ thông:
Giáo lý khai tâm Kitô giáo: dạy chương trình giáo lý đầy đủ, nhưng đơn giản, hướng các em đến việc lãnh nhận các bí tích. Ở đây chia làm 4 giai đoạn[8].
0-6
6-11
11-15
15-18
- Cha mẹ là giáo lý viên, gia đình là trường học.
- Chia sẻ cho trẻ những kinh nghiệm tự nhiên của cuộc sống và gợi ý cho các em hướng về Thiên Chúa.
-Kể cho trẻ những câu chuyện về Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Khuyến khích sử dụng những phương tiện truyền thông và các mô hình sinh họat nhắm kích thích những khám phá của trẻ về Thiên Chúa.
- Giải đáp những thắc mắc của trẻ khi chúng đặt ra.
- Khai tâm Kitô Giáo cho trẻ cách đầy đủ và đơn giản, đưa trẻ đến lãnh nhận các bí tích.
- Tập trung vào Chúa Giêsu
- Các bí tích Giải Tội, Xưng Tội, Thánh Thể và việc tham dự thánh lễ.
- Tập trung học hỏi về lịch sử cứu độ, Chúa Thánh Thần, bí tích Thêm Sức.
- Dạy một số bí tích khác và họat động của chúa thánh thần.
- Giáo lý bao đồng : phụng vụ, bích tích và lịch sử cứu độ.
- Cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa qua các biến cố, nhân Vật.
- Khơi dậy lòng biết ơn.
-Giới thiệu về phụng vụ cho học sinh.
- Những sinh họat tôn giáo, cử hành phụng vụ.
- Giới thiệu lối sống theo Tin Mừng, dạy về các giá trị luân lý.
- khai tâm về đời sống giáo hội đặc biệt là các đặc tính của giáo hội.
- Đào sâu về kiến thức Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
- Dạy các giá tri luân lý Kitô Giáo.
- Khai tâm kiến thức Kinh Thánh, giáo hội học, tu đức.
- Trình bày Đức Giêsu là chân lý là sự thật là Đấng để đáp lại những khao khát và ước vọng, tìm hạnh phúc và chân lý của con người.
5. Phương pháp dạy giáo lý:
  • Nắm bắt được tâm lý cũng như khả năng tiếp thu của từng lứa tuổi, giáo lý viên cần vận dụng và thích nghi phương pháp sư phạm cho phù hợp với hiện đại.
  • Vận dụng những phương tiện truyền thông đại chúng, những phương pháp hiện đại, sử dụng những hình ảnh phù hợp với tiết học, sao cho học viên tiếp thu bài tốt hơn. Làm cho lớp học sinh động, phong phú và giờ học trở nên sống động hơn.
  • Giáo lý viên cần soạn giáo án chi tiết và đầy đủ, đến lớp sớm hơn một chút. Trong lớp học giáo lý viên là một chứng tá sống động cho các em qua những mẩu chuyện về kinh nghiệm sống đức tin trong xã hội hôm nay. Nhất là hướng các em về mẫu gương tuyệt hảo là Đức Kito
  • Về phía học viên, giáo lý viên mời gọi các em tham gia, phát biểu tích cực trong giờ học giáo lý.
C. KẾT LUẬN:
      Vì Giáo lý viên là men trong thế gian, nên không tránh được bị ảnh hưởng của thế gian trong việc truyền thụ Đức Tin. Về mặt tích cực, việc dạy Giáo Lý ở thời đại chúng ta đã làm nảy sinh trong các Kitô hữu cảm nghiệm về sự phong phú của lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, phục hồi sự hiểu biết về Mầu Nhiệm Nhập Thể, ý thức về nhiệm vụ của tất cả chúng ta trong việc truyền giáo của Hội Thánh, và ý thức cao về công bằng xã hội như là một điều cơ bản của Đức Tin Công Giáo. Việc huấn luyện giáo lý viên là một thách đố lớn lao cho các Hội Thánh, và nhất là cho các giáo lý viên giáo dân. Để thi hành sứ vụ này, Hội Thánh tìm kiếm những gì là tốt lành trong nền văn hóa hiện đại, những gì có thể giúp cho việc truyền thụ và hấp thụ Lời Chúa. Đồng thời, Hội Thánh cũng phải thành thật nhận chân những mặt khác của xã hội tương phản với giáo huấn và việc hấp thụ Lời Chúa.                  Tài liệu tham khảo:

  • Bộ Giáo Sĩ, Hướng dẫn tổng quát về huấn giáo, tủ sách Lasan 2008. Bản  dịch của Sư huynh Hồ Quốc Thắng, FSC.
  • Sư huynh Giuse Lê Văn Phượng,FSC (2006), Tâm lý sư phạm, tài liệu dành cho GLV.
  • Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm 1993, Hướng dẫn Giáo lý viên
  • Carl J. Pfiefer, nguyên tác: How to be a better catechist. Để dạy giáo lý hữu hiệu hơn, Tủ sách bồi dưỡng giáo lý viên.

* (Và một số tài liệu của Fr giáo đưa cho).




[1]x. HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VỀ HUẤN GIÁO,( từ số 233 – 262).
[2] X.HDTQVHG, số 234.
[3] HDTQVHG, số 234.
[4] HDTQVHG, số 237.
[5] HDTQVHG, số 237.
[6]x. HDTQVHG, số 240.  241.
[7] x. HDTQVHG số 238 (xem thêm từ số 239 - 247 )
[8] Sư huynh Giuse Lê Văn Phượng, FSC (2006), Tâm lý sư phạm, tài liệu dành cho GLV.

  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

0 nhận xét: