Được tạo bởi Blogger.

Giới thiệu về tôi

Blogger templates

RSS

Pages

NHỮNG BƯỚC ĐI DÂN CHỦ


     I.            DÂN CHỦ MỘT VẦN NẠN
1.     Giáo hội và dân chủ
Giáo hội là dân Thiên Chúa, dân ngôn sứ, dân tư tế, dân chia sẻ vương quyền của Đức Kitô. Dân ấy là dân tự do, làm chủ vận mạng đời mình, làm chủ lịch sử và thế giới (St 1,28; 2,15). Vậy tự bản chất của Giáo Hội là mang trong mình tính dân chủ
Vì dân chủ là quyền làm chủ thuộc về mọi người. Từng thành viên trong xã hội được tôn trọng có quyền tham gia bàn bạc vào công việc chung để góp phần xây dựng vào công ích. Dân chủ không chỉ là môi trường tốt cho tư tưởng mới, cho sự cọ sát những lập trường quan điểm khác nhau. Dân chủ còn là lẽ sống của những xã hội khát vọng tiến bộ. Dân chủ cũng là một thực thể sống động đặt trên ba cột trụ : DÂN SINH, DÂN QUYỀN VÀ DÂN TRÍ. Để có được một chế độ dân chủ thì ba cột trụ này phải cân bằng nhau.
2.     Dân chủ hay chủ dân?
Tự căn tính của Giáo Hội là dân chủ nhưng trong thực tế Giáo Hội, có dân chủ hay không? Đó chính là vấn nạn đưa tôi tới cận vấn.
Ta có thể nói Giáo Hội dân chủ khi mà:
-         Đứng trước làn sóng lạc giáo, Giáo Hội lại bóp nghẹt tiếng nói của họ bằng trấn áp, lập tòa tra (1224 - 1233)… Hệ quả của nó để lại và âm vang khó xóa nhòa là vụ án Galilê trước dư luận của thế giới.
-         Hay như, khởi điểm Canosa (1077) cho việc khẳng định quyền Giáo hoàng và đỉnh cao khi Giáo hoàng trở thành trọng tài các quốc gia với Đức Innocente III (1198 -1216), mở đầu cho khuynh hướng giáo sĩ trị.
-         Hơn nữa, Giáo Hội mang một cơ cấu phẩm trật như một pháo đài kiên cố và những định chế nhất định chằng chịt.
Nếu được gọi một Giáo Hội như thế, tôi sẽ gọi là pháo đài kiên cố và phải là chủ dân!
Nhưng có thật chỉ có thôi không? Ta cùng nhìn lại từng chặn đường lịch sử của Giáo Hội, ta sẽ thấy vấn nạn được vén mở.
    II.            NHỮNG VẤN NẠN ĐƯỢC MỞ
1.     Đổi mới không ngừng
Đổi mới là qui luật cuộc sống của muôn đời. Nơi Giáo Hội sơ khai một bước nhảy vọt ra khỏi mình, khỏi cộng đoàn Do Thái để đem Tin Mừng đến cho dân ngoại, bên cạnh việc chọn bảy phó tế năng động để hướng dẫn cộng đoàn Hy hóa. Sự đổi mới này khẳng định ơn Cứu độ không chỉ dành riêng cho dân tộc được chọn và mở ra một chặng đường dài cho việc truyền giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn nữa, còn là lời minh chứng mọi người có thể đóng góp vào công việc quản trị của Giáo Hội. Đó là cách làm cho Giáo Hội thoát ra sự suy thoái, già cỗi mà có thể lâm vào bế tắc.
Hơn hai ngàn năm qua Giáo Hội, Dòng tu bước đi trong sự đổi mới liên tục. Sự đổi mới làm bộ mặt được phát triển qua các Công Đồng. Chính ở đây sự cọ sát tư tưởng những quan điểm lập trường được sáng lên và được hình thành một hệ thống. Một sự đổi mới mang sức âm vang sâu sắc nhất chính là kết quả của công đồng Vaticano II (11/12/1962 – 8/12/1965) đã giới thiệu một chân dung trẻ trung, sống động, dẻo dai của Giáo Hội; nhờ đó Giáo Hội có thể hòa nhập, đồng hành, đối thoại với thế giới.
Đổi mới ấy khởi đầu cho sự tiến bộ nâng cao chất lượng sống làm thăng tiến xã hội, giáo hội; làm thỏa đáng yếu tố nhân sinh. Đổi mới còn là sân chơi của dân chủ. Thật vậy khi con người dừng chân không tiến tới trong suy nghĩ hay trong hành động thì chính là lúc đưa tới sự tê liệt, sự bảo thủ đối kháng với dân chủ. Nhưng đổi mới chỉ đưa tới cái mới, cái tốt khi đặt trên thang giá trị của tôn trọng và yêu thương bằng không sự đổi mới chỉ đưa tới diệt vong.
2.     Tôn trọng và yêu thương
a.     Hình bóng
Thời các Thủ lãnh trong Cựu ước, dân Israel xin Samuel một vị vương quân. Dẫu ông không vui, nhưng ông tôn trọng tiếng  nói của quần chúng và quyền tự quyết của họ để thiết lập cho họ chế độ quân chủ.
b.     Những bước tiến
Nếu trong Cựu ước có sự tôn trọng ý dân cách cưỡng ép, sang thời Tân Ước một bước tiến hơn với sự tôn trọng trong vui tươi và sáng kiến
Thời Giáo Hội sơ khai, để có người thế Giuđa, Giáo Hội không ép buộc, không áp đặt quyền hành nhưng thể hiện tinh thần tự do qua việc rút thăm và Mathia đã trúng cử. (Cv 1,23-26)
Một sự kiện khác vượt ra khỏi lối nhìn đặt quyền đặt lợi dành riêng cho  một số người, anh em Đaminh khai mở chế độ dân chủ trong đời tu, qua việc tín nhiệm tự chọn lựa của anh em khi lá phiếu của bề trên cũng cùng một giá trị như anhh em mình. Hiện nay nhiều dòng tu cũng áp dụng.
Năm 1376, tiếng nói của một nữ giáo dân được công nhận. cartarina đã thành công trong việc thuyết phục Đức Giêrôriô dời giáo triều từ Avignon về Roma khi tiếng nói của phụ nữ dường như không có trong xã hội. Giáo Hội đã tiến sang trong việc tôn trọng nhân quyền, quyền tự do và quyền bình đẳng. Sự tôn trọng đòi hỏi chúng ta phải rời khỏi chính mình để lắng nghe người khác. Đó là một cách thể hiện của tình yêu.
Không có tình yêu thương nào cao trọng hơn tình yêu hi sinh tính mạng cho người mình yêu. Thế kỷ XVI, ở Châu Mỹ Latinh, có những người đã thổn thức trước những nỗi thống khổ của anh em thổ dân mà đấu tranh cho họ. Tiêu biểu như Monstesinos (1511), B. Lascasas. Đó là tình yêu giúp con người  đi đến với anh em bị đẩy ra bên lề xã hội, như cha Đamiêng, vị tông đồ người phong trong thế kỷ XIX, như mẹ Têrêsa Calcutta của thế kỷ XX, họ là những người dám sống chết và dấn thân cho chân lý, cho nhân sinh, nhân quyền. Cuộc đấu tranh ấy vẫn không hề ngơi nghỉ trong cuộc sống hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Đó là cuộc chiến không cần khí giới, không chút vị kỷ, không vì danh lợi. Con đường ấy mãi mãi mời gọi chúng ta dấn thân cho công lý hòa bình, bảo vệ cho con người, cho sự sống, cho những giá trị cao cả, vượt lên trên lối nhìn thực dụng của người đời. Đó là thể hiện quyền làm chủ, quyền tự do trong lựa chọn. Quyền tự do để làm người đích thực trong tương quan với tha nhân. Tôn trọng, yêu thương, bảo vệ nhân quyền là một trong ba cột trụ dân chủ. Đó cũng là đòi hỏi căn bản của Kitô giáo
3.     Mở rộng tầm nhìn
Ta chỉ có thể yêu thương, tôn trọng và bảo vệ nhân quyền khi có một cách nhìn khách quan về cuộc đời, về thế thái nhân tình. Nó đòi hỏi ta có sự hiểu biết. Sự hiểu biết có được từ học hỏi, tìm tòi và từng trải trong cuộc sống.
Giáo hội đẩy mạnh sự học hỏi từ thế kỷ XII-XIII, các tu sĩ dòng hành khất đã đi vào đại học, góp phần đào tạo các anh em tu sĩ và một lớp tín hữu có khả năng. Bên cạnh đó là lớp men Tin Mừng, họ là các tu sĩ dòng Cát Minh, Phanxicô và Đaminh.
Hôm nay, bên cạnh thế giới đang đẩy lùi mù chữ, gia tăng dần thuận lợi cho việc mở rộng tầm nhìn, phát triển tư tưởng qua truyền thông xã hội, báo chí. Đặc biệt qua Internet, mọi thành phần dân Chúa có cơ hội mở rộng tầm nhìn hơn nữa.
Sự học hỏi, đối thoại và khả năng ý thức của giáo dân góp phần đẩy mạnh một hướng đi mới cho Giáo Hội, trở thành “Giáo Hội của giáo dân”. Cuối thế kỷ XX, chúng ta càng thấy rõ hơn biểu hiện ấy : đó là vai trò người giáo dân trong các ban hành giáo xứ, ủy ban mục vụ, đoàn thể công giáo tiến hành, các nhóm công tác xã hội. Nhiều đoàn thể do chính giáo dân phát động, tổ chức và huấn luyện. Dân trí chính là thành tố của dân chủ.  
4.     Tâm điểm qui hướng
Hiểu biết giúp chúng ta ái mộ những gì  là chân lý, thiện hảo, tốt đẹp và kiện toàn những giá trị nhân vị, hướng ta đến những điều sâu ẩn bên trong những giá trị cao đẹp của đổi mới và yêu thương, hướng ta đến sự hiện diện nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Từ niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương mở ra cho ta sự liên đới trách nhiệm mới, một tương quan người với người để dám hy vọng, dám trông chờ, dám tin tưởng vào nhau và vào tương lai khi cuộc đời vẫn còn lắm nỗi phiêu lưu và kết quả còn là ẩn số.
Hơn nữa, từ Thiên Chúa luôn mời gọi con người luôn mời gọi con người  dám đảm nhận cuộc đời của mình. Đảm nhận trong yêu thương và vui vẻ nghĩa vụ phục vụ anh em. Đây chính là sự đổi mới sâu xa vì chính nơi đây “tự  do” đúng nghĩa được triển nở, thoát được những ràng buộc ích kỷ và tật xấu để làm chủ chính mình, làm chủ lịch sử, và làm chủ thế giới. Đó cũng chính là ý nghĩa chức năng “vương giả” của người kitô hữu. Chính ở đây, ta thấy dân chủ cho ta nhiều cơ may để tìm được thánh ý Chúa. Vậy tính thiên chủ của Giáo Hội hoàn toàn không bóp nghẹt dân chủ mà còn làm cho dân chủ phát triển đúng cách.
 III.            VẤN NẠN VẪN CÒN ĐÓ
Giáo Hội tự bản chất và thực chất mang trong mình tính dân chủ. Điều đó không giúp cho Giáo Hội tránh khỏi những sai lầm trong cuộc sống hằng  ngày. Tuy nhiên, trong nhận định chúng ta đừng quên : có những điều hôm qua tốt thì nay xấu, có những điều ở nơi này hay đến chỗ khác lại hóa dở. Đứng trước lịch sử, điều lớn hơn hết là tìm ra bài học cho chính mình hôm nay.
Giáo Hội hôm nay và ngày mai có dân chủ hay không còn tùy thuộc vào con người trong Giáo Hội. Mỗi người không thể tách khỏi cộng đoàn và cộng đoàn cũng không thể tách khỏi những thành viên. Do đó, điều quan trọng là mỗi cá nhân phải biết sống tính dân chủ với những yêu cầu của nó là:
-         Đổi mới : Một sự đổi mới tận căn, sự hoán cải (Métanoia) mỗi ngày. Một cuộc lột xác để dám sống tin yêu và hy vọng.
-         Tôn trọng và yêu thương : Yêu đời và yêu người
-         Mở rộng tầm nhìn : Một công tác cần thực hiện cả đời thông qua học hỏi, đối thoại để biết về con người và nhận ra dấu chỉ thời đại .
-         Hiệp thông với Thiên Chúa. Đặc biệt qua Thánh lễ Misa
Những đòi hỏi trên không dễ để thực hiện, nhưng là một thách đố. Bởi lẽ những đòi  hỏi này mang tính toàn bộ và liên đới với nhau.

Thách  đố này chỉ có thể vượt qua nếu mỗi người dám sống, dám chết cho cái đẹp, điều thiện và sự thật. Khi đó ta góp phần cho sa mạc cuộc đời nở hoa. Khi đó ta sống và bơi lội trong bầu khí dân chủ và dân chủ ngày càng được lớn lên trong xã hội và trong giáo hội toàn cầu.
Xuân Hy Vọng

  • Digg
  • Del.icio.us
  • StumbleUpon
  • Reddit
  • RSS

0 nhận xét: